Ý kiến thăm dò

Truy cập

Hôm nay:
1
Hôm qua:
0
Tuần này:
1
Tháng này:
0
Tất cả:
85309

THÀNH TỰU VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ- XÃ HỘI- QUỐC PHÒNG- AN NINH

Ngày 01/06/2021 10:00:00

THÀNH TỰU

VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ- XÃ HỘI- QUỐC PHÒNG- AN NINH

1. Về phát triển kinh tế.

Tốc độ tăng giá trị sản xuất bình quân hằng đạt 11,8% chưa đạt chỉ tiêu so với nghị quyết Đại hội (14%). (Trong đó: Nông - lâm - Thuỷ sản tăng 5,47%; Công nghiệp, tiểu thủ CN và XD là 13,8% và Dịch vụ - thương mại là 28,6%). Cơ cấu kinh tế bình quân hàng năm chuyển dịch theo hướng tích cực, phù hợp với xu thế phát triển,trong đó: Nông - Lâm - Thủy sản: 44,2% , giá trị bình quân  đạt 59.927 triệu đồng, tăng 12.677 triệu đồng so với nhiệm kỳ trước. Công nghiệp - xây dựng 8,4% giá trị đạt 11.389 triệu đồng. Dịch vụ - thương mại 48,4% tăng 28,4% so với mục tiêu nghị quyết đại hội (20%), tăng 12,3% so với nhiệm kỳ trước, giá trị đạt 65.670 triệu đồng. Tổng giá trị sản xuất vào năm 2020 ước đạt 210.494 triệu đồng, tăng 99.725 triệu đồng so với năm 2015 vượt  mục tiêu Nghị quyết đại hội đề ra ( Bình quân hàng năm tăng 70 tỷ). Thu nhập bình quân đầu người năm 2020 ước đạt 32,5 triệu đồng/người/năm, tăng 14,8 triệu đồng so với năm 2015, vượt mục tiêu Nghị quyết đại hội (22 triệu đồng/người/năm).

1.1. Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản:

Tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm đạt 5,47%; cơ cấu cây trồng, vật nuôi và phát triển mô hình kinh tế trang trại, gia trại đạt được nhiều kết quả. Tổng diện tích cây Lúa bình quân đạt 173,2/187 ha, diện tích Ngô bình quân hàng năm đạt 103,9/169 ha chưa đạt so mục tiêu nghị quyết đại hội, do một số diện tích đất lúa, ngô năng suất thấp được chuyển mục đích sử dụng sang trồng các loại cây lâm nghiệp và cây trồng khác hiệu quả cao hơn. Việc áp dụng cơ giới hóa vào sản xuất được thực hiện rộng khắp; sản lượng lương thực bình quân hàng năm là 1.412 tấn giảm 230 tấn so với nhiệm kỳ 2010-2015, đạt 83,05% so với mục tiêu nghị quyết đại hội đề ra. Hiện nay xã có 01 trang trại cây ăn quả và phát triển các mô hình trồng cây ăn quả như: Cam, bưởi bồng, Dừa xiêm, Mít.....Giá trị sản phẩm thu được trên 1ha đất sản xuất nông nghiệp năm 2020 ước đạt 62 triệu đồng.

Phát huy thế mạnh của địa phương về phát triển chăn nuôi gia cầm, thủy cầm theo hướng tập trung gia trại, đến nay trên địa bàn xã có 16 gia trại. Trong đó có 10 mô hình gia trại về chăn nuôi gia cầm, thủy cầm với quy mô ổn định từ 1.000 con/lứa trở lên. Tng đàn Trâu bình quân hàng năm đạt 600 con/500 con, sản lượng thịt hơi đạt 46,9 tấn, đạt chỉ tiêu đại hội; đàn Bò bình quân hàng năm đạt 264 con/200 con, sản lượng thịt hơi đạt 20,2 tấn, đạt chỉ tiêu đại hôi; đàn Lợn bình quân hàng năm đạt 1.134 con/2.000 con, sản lượng thịt lợn hơi đạt 117,4 tấn, chưa đạt chỉ tiêu đại hội. Đàn gia cầm, thủy cầm bình quân hàng năm đạt 40.407 con/40.000 con, sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 180 tấn, trứng thương phẩm 1 triệu 700 nghìn quả, đạt chỉ tiêu đại hội đề ra.

Duy trì và phát triển diên tích rừng hiện có 541,8ha, nhiệm kỳ qua trồng mới được 57 ha chủ yếu là rừng sản xuất, vượt chỉ tiêu nghị quyết đại hội đề ra 47 ha/năm (NQ đề ra10-15 ha/năm); công tác bảo vệ rừng và PCCCR luôn thực hiện tốt. Tỷ lệ độ che phủ rừng đạt 23,2% diện tích tự nhiên của xã. Giá trị khai thác mang lại đạt bình quân 55 triệu đồng/ha sau chu kỳ 4 -5 năm chăm sóc. Phát triển thủy sản cơ bản ổn định diện tích 21,89ha, giá trị bình quân hàng năm đạt 120 triệu đồng/năm.

1.2. Sản xuất tiểu thủ công nghiệp và xây dựng cơ bản:

 Tốc độ tăng giá trị sản xuất bình quân hàng năm đạt 8,4%. Giá trị sản xuất năm 2020 ước đạt 27.743 triệu đồng, tăng 8.205 triệu đồng so với năm 2015; việc thu hút đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp, tiêu thủ công nghiệp và xây dựng trên địa bàn xã trong những năm qua đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần quan trọng vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của xã.

1.3. Về phát triển dịch vụ - thương mại:

 Tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm đạt 28,6%. Giá trị sản xuất đạt 65.670 triệu đồng tăng 28.715 triệu đồng so với năm 2015. Trên địa bàn xã năm 2015 có 74 cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể, đến năm 2020 có 98 cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể, doanh  thu đến năm 2020 đạt khoảng 15.313 triệu đồng. Hạ tầng thương mại phát triển  tốt, đáp ứng cơ bản nhu cầu của nhân dân, việc chuyển đổi mô hình quản lý chợ cơ bản ổn định và phát triển. Tổng số phươn g tiện vận tải hiện có đến nay là 13 xe vận tải hàng hóa các loại, 01 máy xúc, 07 xe dịch vụ vận tải phục vụ nhu cầu của nhân dân. Dịch vụ viễn thông, công nghệ thông tin đã phủ sóng toàn xã, số dịch vụ Internet thông qua cáp cố định và mạng di động 4G tăng cao hàng năm, việc tiếp cận các thông tin cơ bản thông qua các phương tiện truyền thông thuận tiện cho nhân dân. Các hoạt động dịch vụ kinh doanh nhà hàng ăn uống, hàng tạp hóa phát triển tốt. Các dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp phát triển mạnh: Hiện nay toàn xã có 32 máy cày, bừa các loại phục vụ sản xuất nông nghiệp, toàn bộ các hoạt động trước gieo trồng được cơ giới hoá khoảng 95% diện tích.

1.4. Về phát triển doanh nghiệp, hợp tác xã và huy động vốn đầu tư phát triển.

 Công tác tuyên truyền vận động phát triển doanh nghiệp luôn được quan tâm lãnh chỉ đạo, đầu nhiệm kỳ xã có 03 công ty, doanh nghiệp đóng trên địa bàn, đến nay đã có 07 công ty, doanh nghiệp đang hoạt động. Ước thực hiện năm 2020 phát triển thêm 01 doanh nghiệp nâng tổng số doanh nghiệp trên địa bàn xã lên 08 doanh nghiệp, đạt 260%  so với năm 2015. Thành lập Hợp tác xã Dịch vụ Nông nghiệp xã Lộc Thịnh đi vào hoạt động từ năm 2015, góp phần hỗ trợ nhân dân thúc đẩy phát triển sản xuất.

1.5. Về tài chính, tín dụng:

 Tổng thu Ngân sách Nhà nước bình quân hàng năm đạt 7.332.112.509 đồng, tăng 4.166.570.113 đồng so với bình quân nhiệm kỳ trước.

Về công tác tín dụng ngân hàng được phát triển mạnh, quản lý tốt các nguồn vốn vay sử dụng đúng mục đích, đạt hiệu quả cao; tổng số dư  nợ ngân hàng đến ngày 30 tháng 4 năm 2020 là: 51.309.000.000 đồng; Trong đó: Ngân hàng chính sách xã hội: 15.804.000.000 đồng/487 lượt hộ vay; Ngân hàng NN&PTNT:35.505.000.000 đồng/427 lượt hộ vay, tăng  26.431.400.000 đồng so với năm 2015.

1.6. Công tác quản lý nhà nước về đất đai, tài nguyên và môi trường

Công tác quản lý đất đai được thực hiện đúng quy định của pháp luật. Việc quản lý tài nguyên khoáng sản được tăng cường, ngăn chặn kịp thời tình trạng khai thác khoáng sản trái phép. Thường xuyên quan tâm chỉ đạo về quản lý môi trường gắn với chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới , các hoạt động gây ô nhiễm môi trường được ngăn chặn kịp thời, các thôn duy trì dọn vệ sinh trong thôn 2 lần/tháng; cơ quan công sở xã, các nhà trường, trạm y tế thường xuyên tổ chức dọn vệ sinh 1 lần/ tuần. Tỷ lệ dân số dùng nước hợp vệ sinh là: 98,4%.

Trong giai đoạn 2015-2019 xã Lộc Thịnh đã tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất, tổng diện tích đất được đấu giá là: 20,229,74 m2, tổng số tiền thu ngân sách đạt trên 3,5 tỷ đồng.

Tăng cường chỉ đạo việc rà soát lập hồ sơ, xét đề nghị cấp giấy chứng nhận QSD đất ở lần đầu và đất nông nghiệp sau đổi điền dồn thửa, được thực hiện kịp thời, đến nay đã cấp 218 giấy CNQSDĐ các loại cho nhân dân.  

2. Về chương trình xây dựng nông thôn mới và các phong trào phát triển kinh tế  - xã hội của xã.

Với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự đồng thuận, hưởng ứng của toàn dân.Trong 5 năm qua trên địa bàn xã với sự hỗ trợ từ nguồn lực của Ngân sách cấp trên, vốn lồng ghép các chương trình dự án và sự đóng góp của nhân dân đã đầu tư xây dựng được 13,49 km đường bê tông xi măng; 9,44km đường cấp phối; xây mới 05 Nhà văn hóa thôn,01 trạm y tế; Nhà hiệu bộ trường Tiểu Học, 02 trạm biến áp, 01 nhà trường mầm non với 4 phòng học, hoàn thiện các công trình, hạng mục Công sở xã, Trung tâm VHTT xã, xây mới chợ, Nhà bia tưởng niệm các Anh hùng liệt sỹ của ; tiến hành khoan thăm dò để xây mới Nhà hiệu bộ trường Mầm Non trong năm 2020; xây mới và tu sửa hệ thống kênh mương, hồ đập trên địa bàn xã đảm bảo nhu cầu tưới tiêu phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Đến nay xã đã đạt 14/19 tiêu chí; 2/6 thôn, làng đạt chuẩn nông thôn mới.

Các phong trào về phát triển kinh tế - xã hội của Huyện được triển khai thực hiện có hiệu quả, trong nhiệm kỳ các thôn, làng đã chỉnh trang khuôn viên được 10/6 thôn, Làng, 01 khuôn viên cơ quan xã, 01 khuôn viên nhà trường; xây dựng được 10 cổng chào;  trên 9 km đường điện chiếu sáng; xây dựng được 10 gia trại.

  Tổng số vốn huy động trong giai đoạn 2015 - 2020 trên 45 tỷ đồng. Trong đó: Vốn nhân dân đóng góp: 27 tỷ, còn lại là vốn lồng ghép các chương trình dự án.

3. Về lĩnh vực văn hóa - xã hội có nhiều chuyển biến tiến bộ; công tác an sinh xã hội được chăm lo; đời sống vật chất tinh thần của nhân dân tiếp tục được nâng lên.

3.1. Hoạt động văn hoá, thông tin, thể dục thể thao.

 Thường xuyên thực hiện tốt công tác thông tin tuyên truyền các chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước, nhiệm vụ chính trị của địa phương. Chất lượng hoạt động của thôn, nếp sống văn minh trong các khu dân cư được nâng lên, phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa tiếp tục được đẩy mạnh.

Chỉ đạo triển khai và thực hiện việc khai trương xây dựng thôn, cơ quan văn hóa; đến nay5/6 thôn, làng; 3/4 cơ quan văn hóa được công nhận; có 593 hộ đạt gia đình văn hóa = 59,6%. Có 6 đội văn nghệ và 12 đội bóng chuyền nam nữ. Duy trì tổ chức tốt ngày hội văn hóa,thể thao truyền thống của xã vào ngày 15 tháng giêng hàng năm.

3.2. Giáo dục - đào tạo:

- Tập trung chú trọng đổi mới công tác quản lý và nâng cao chất lượng dạy và học, xây dựng trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia, các nhà trường hàng năm hoàn thành tốt nhiệm vụ năm học; Tỷ lệ học sinh khá, giỏi hàng năm được tăng lên, chất lượng mũi nhọn được quan tâm, trong nhiệm kỳ qua đã có học sinh đạt giải học sinh giỏi cấp tỉnh.

Hoạt động của Hội khuyến học, trung tâm học tập cộng đồng đã phát huy hiệu quả: Hàng năm hội khuyến học đã phát động quyên góp, ủng hộ xây dựng quỹ khuyến học và trao thưởng cho giáo viên, học sinh đạt thành tích xuất sắc, gia đình dòng họ hiếu học, học sinh nghèo vượt khó vào dịp tổng kết công tác giáo dục hằng năm; phối hợp với các tổ chức nhân đạo, các công ty tổ chức trao học bổng cho học sinh nghèo vượt khó như học bổng của nhà máy đường Lam Sơn, học bổng “Doãn Tới”....Trong nhiệm kỳ qua trung tâm học tập cộng đồng đã mở được 110 lớp với 6.580 lượt học viên tham gia.

3.3. Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân và vệ sinh an toàn thực phẩm:

 Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho việc chăm sóc sức khỏe ban đầu tại Trạm y tế luôn đảm bảo, đội ngũ cán bộ y tế đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ. Giữ vững xã đạt chuẩn Quốc gia về y tế giai đoạn 2015-2020. Tỷ lệ người dân tham gia BHYT đến nay đạt 97,28%. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng đầu nhiệm kỳ 19,6%, đến nay giảm xuống còn dưới 18%. Tỷ lệ tăng dân số bình quân hàng năm dưới 1%, đạt mục tiêu nghị quyết đại hội.

Thường xuyên quan tâm tuyên truyền nâng cao nhận thức cho người dân về vệ sinh an toàn thực phẩm,khuyến khích nhân dân sản xuất tự cung tự cấp một số thực phẩm phục vụ nhu cầu hàng ngày để đảm bảo sức khỏe và dinh dưỡng,triển khai ký cam kết về sản xuất và cung cấp thực phẩm đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.

3.4.Chính sách xã hội:

 Giải quyết việc làm, xuất khẩu lao động hàng năm luôn được quan tâm tổ chức thực hiện, trong nhiệm kỳ đã giới thiệu giải quyết việc làm cho 425 lao động và ước thực hiện 2020 đạt 42 lao động. Công tác xuất khẩu lao động được quan tâm, đã xuất cảnh  67 lao động đi làm việc tại thị trường Ả rập, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc và một số quốc gia trong khu vực Đông Nam Á; dự kiến 2020 xuất cảnh 10 lao động.

Các ngành, đoàn thể đã phối hợp thực hiện tốt công tác giảm nghèo, phong trào giúp nhau phát triển kinh tế luôn thực hiện rộng rãi, thiết thực như hỗ trợ vốn tín dụng,   kiến thức khoa học kỷ thuất, lao động, giống cây con; nhiều hộ đã vươn lên thoát nghèo, một số hộ đã trở nên khá giàu. Trong nhiệm kỳ đã giảm được 168 hộ nghèo, đến nay tỷ lệ hộ nghèo còn 5,07%, vượt chỉ tiêu Nghị quyết đại hội (dưới 7%); giảm 145 hộ cn nghèo đến nay tỷ lệ hộ cận nghèo còn 6,31%.

Công tác đào tạo nghề; chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn luôn được quan tâm, giảm lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, tăng lao động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ và các ngành nghề khác.

Công tác Chính sách - xã hội được đảm bảo, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện; tập trung chỉ đạo giải quyết chế độ, chính sách an sinh xã hội, chính sách người có công được thực hiện đầy đủ, kịp thời. Thực hiện tốt các chính sách về Dân tộc, kịp thời thăm hỏi,động viên, tặng quà cho các hộ gia đình thuộc đối tượng chính sách trong dịp lễ tết và khi gặp khó khăn hoạn nạn.

4. Về Quốc phòng - An ninh

            4.1. Quốc phòngQuan tâm, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân. Thường xuyên giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và nhân dân về nhiệm vụ quốc phòng - an ninh. Chú trọng công tác xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện, an toàn làm chủ, sẵn sàng chiến đấu và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; trong năm 5 qua đã tổ chức huấn luyện cho 266 đồng chí dân quân kết quả 100% đạt yêu cầu, trong đó có 75% đạt khá và giỏi, tổ chức lớp bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho đối tượng 4 do xã quản lý là: 35 đồng chí. đối tượng 4 do huyện quản lý là 12 đ/c; đối tượng 3 là 6 đ/c. Duy trì và thực hiện nghiêm túc chế độ trực sẵn sàng chiến đấu từ xã đến các thôn trong các ngày lễ, tết, các ngày lễ lớn của quê hương đất nước. Năm 2019 hoàn thành tốt nhiệm vụ diễn tập chiến đấu phòng thủ. Trong nhiệm kỳ đã tiễn 22 thanh niên lên đường làm nghĩa vụ quân sự đạt chỉ tiêu trên giao.

      Thực hiện tốt công tác chính sách hậu phương quân đội, đến nay đã xét đề nghị chi trả 28/46 đối tượng theo quyết định 62, 100/155 đối tượng quyết định 49 của thủ tướng chính phủ.

            4.2. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội:

            Đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc, xây dựng thôn, làng không có tội phạm và tệ nạn xã hội. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tiếp tục được giữ vững. Phạm pháp hình sự giảm về số vụ, không có điểm nóng xảy ra; ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân được nâng lên rõ rệt.

Việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần xây dựng ý thức sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật trong tầng lớp nhân dân. Công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật, công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư tố cáo, khiếu nại của công dân luôn được quan tâm thực hiện. Trong nhiệm kỳ đã tiếp 21 lượt công dân với 21 đơn kiến nghị đã giải quyết đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật, không có tình trạng khiếu kiện đông người xảy ra. Trên  80% các khu dân cư đạt chuẩn về an ninh trật tự .

  

THÀNH TỰU

VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ- XÃ HỘI- QUỐC PHÒNG- AN NINH

1. Về phát triển kinh tế.

Tốc độ tăng giá trị sản xuất bình quân hằng đạt 11,8% chưa đạt chỉ tiêu so với nghị quyết Đại hội (14%). (Trong đó: Nông - lâm - Thuỷ sản tăng 5,47%; Công nghiệp, tiểu thủ CN và XD là 13,8% và Dịch vụ - thương mại là 28,6%). Cơ cấu kinh tế bình quân hàng năm chuyển dịch theo hướng tích cực, phù hợp với xu thế phát triển,trong đó: Nông - Lâm - Thủy sản: 44,2% , giá trị bình quân  đạt 59.927 triệu đồng, tăng 12.677 triệu đồng so với nhiệm kỳ trước. Công nghiệp - xây dựng 8,4% giá trị đạt 11.389 triệu đồng. Dịch vụ - thương mại 48,4% tăng 28,4% so với mục tiêu nghị quyết đại hội (20%), tăng 12,3% so với nhiệm kỳ trước, giá trị đạt 65.670 triệu đồng. Tổng giá trị sản xuất vào năm 2020 ước đạt 210.494 triệu đồng, tăng 99.725 triệu đồng so với năm 2015 vượt  mục tiêu Nghị quyết đại hội đề ra ( Bình quân hàng năm tăng 70 tỷ). Thu nhập bình quân đầu người năm 2020 ước đạt 32,5 triệu đồng/người/năm, tăng 14,8 triệu đồng so với năm 2015, vượt mục tiêu Nghị quyết đại hội (22 triệu đồng/người/năm).

1.1. Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản:

Tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm đạt 5,47%; cơ cấu cây trồng, vật nuôi và phát triển mô hình kinh tế trang trại, gia trại đạt được nhiều kết quả. Tổng diện tích cây Lúa bình quân đạt 173,2/187 ha, diện tích Ngô bình quân hàng năm đạt 103,9/169 ha chưa đạt so mục tiêu nghị quyết đại hội, do một số diện tích đất lúa, ngô năng suất thấp được chuyển mục đích sử dụng sang trồng các loại cây lâm nghiệp và cây trồng khác hiệu quả cao hơn. Việc áp dụng cơ giới hóa vào sản xuất được thực hiện rộng khắp; sản lượng lương thực bình quân hàng năm là 1.412 tấn giảm 230 tấn so với nhiệm kỳ 2010-2015, đạt 83,05% so với mục tiêu nghị quyết đại hội đề ra. Hiện nay xã có 01 trang trại cây ăn quả và phát triển các mô hình trồng cây ăn quả như: Cam, bưởi bồng, Dừa xiêm, Mít.....Giá trị sản phẩm thu được trên 1ha đất sản xuất nông nghiệp năm 2020 ước đạt 62 triệu đồng.

Phát huy thế mạnh của địa phương về phát triển chăn nuôi gia cầm, thủy cầm theo hướng tập trung gia trại, đến nay trên địa bàn xã có 16 gia trại. Trong đó có 10 mô hình gia trại về chăn nuôi gia cầm, thủy cầm với quy mô ổn định từ 1.000 con/lứa trở lên. Tng đàn Trâu bình quân hàng năm đạt 600 con/500 con, sản lượng thịt hơi đạt 46,9 tấn, đạt chỉ tiêu đại hội; đàn Bò bình quân hàng năm đạt 264 con/200 con, sản lượng thịt hơi đạt 20,2 tấn, đạt chỉ tiêu đại hôi; đàn Lợn bình quân hàng năm đạt 1.134 con/2.000 con, sản lượng thịt lợn hơi đạt 117,4 tấn, chưa đạt chỉ tiêu đại hội. Đàn gia cầm, thủy cầm bình quân hàng năm đạt 40.407 con/40.000 con, sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 180 tấn, trứng thương phẩm 1 triệu 700 nghìn quả, đạt chỉ tiêu đại hội đề ra.

Duy trì và phát triển diên tích rừng hiện có 541,8ha, nhiệm kỳ qua trồng mới được 57 ha chủ yếu là rừng sản xuất, vượt chỉ tiêu nghị quyết đại hội đề ra 47 ha/năm (NQ đề ra10-15 ha/năm); công tác bảo vệ rừng và PCCCR luôn thực hiện tốt. Tỷ lệ độ che phủ rừng đạt 23,2% diện tích tự nhiên của xã. Giá trị khai thác mang lại đạt bình quân 55 triệu đồng/ha sau chu kỳ 4 -5 năm chăm sóc. Phát triển thủy sản cơ bản ổn định diện tích 21,89ha, giá trị bình quân hàng năm đạt 120 triệu đồng/năm.

1.2. Sản xuất tiểu thủ công nghiệp và xây dựng cơ bản:

 Tốc độ tăng giá trị sản xuất bình quân hàng năm đạt 8,4%. Giá trị sản xuất năm 2020 ước đạt 27.743 triệu đồng, tăng 8.205 triệu đồng so với năm 2015; việc thu hút đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp, tiêu thủ công nghiệp và xây dựng trên địa bàn xã trong những năm qua đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần quan trọng vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của xã.

1.3. Về phát triển dịch vụ - thương mại:

 Tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm đạt 28,6%. Giá trị sản xuất đạt 65.670 triệu đồng tăng 28.715 triệu đồng so với năm 2015. Trên địa bàn xã năm 2015 có 74 cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể, đến năm 2020 có 98 cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể, doanh  thu đến năm 2020 đạt khoảng 15.313 triệu đồng. Hạ tầng thương mại phát triển  tốt, đáp ứng cơ bản nhu cầu của nhân dân, việc chuyển đổi mô hình quản lý chợ cơ bản ổn định và phát triển. Tổng số phươn g tiện vận tải hiện có đến nay là 13 xe vận tải hàng hóa các loại, 01 máy xúc, 07 xe dịch vụ vận tải phục vụ nhu cầu của nhân dân. Dịch vụ viễn thông, công nghệ thông tin đã phủ sóng toàn xã, số dịch vụ Internet thông qua cáp cố định và mạng di động 4G tăng cao hàng năm, việc tiếp cận các thông tin cơ bản thông qua các phương tiện truyền thông thuận tiện cho nhân dân. Các hoạt động dịch vụ kinh doanh nhà hàng ăn uống, hàng tạp hóa phát triển tốt. Các dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp phát triển mạnh: Hiện nay toàn xã có 32 máy cày, bừa các loại phục vụ sản xuất nông nghiệp, toàn bộ các hoạt động trước gieo trồng được cơ giới hoá khoảng 95% diện tích.

1.4. Về phát triển doanh nghiệp, hợp tác xã và huy động vốn đầu tư phát triển.

 Công tác tuyên truyền vận động phát triển doanh nghiệp luôn được quan tâm lãnh chỉ đạo, đầu nhiệm kỳ xã có 03 công ty, doanh nghiệp đóng trên địa bàn, đến nay đã có 07 công ty, doanh nghiệp đang hoạt động. Ước thực hiện năm 2020 phát triển thêm 01 doanh nghiệp nâng tổng số doanh nghiệp trên địa bàn xã lên 08 doanh nghiệp, đạt 260%  so với năm 2015. Thành lập Hợp tác xã Dịch vụ Nông nghiệp xã Lộc Thịnh đi vào hoạt động từ năm 2015, góp phần hỗ trợ nhân dân thúc đẩy phát triển sản xuất.

1.5. Về tài chính, tín dụng:

 Tổng thu Ngân sách Nhà nước bình quân hàng năm đạt 7.332.112.509 đồng, tăng 4.166.570.113 đồng so với bình quân nhiệm kỳ trước.

Về công tác tín dụng ngân hàng được phát triển mạnh, quản lý tốt các nguồn vốn vay sử dụng đúng mục đích, đạt hiệu quả cao; tổng số dư  nợ ngân hàng đến ngày 30 tháng 4 năm 2020 là: 51.309.000.000 đồng; Trong đó: Ngân hàng chính sách xã hội: 15.804.000.000 đồng/487 lượt hộ vay; Ngân hàng NN&PTNT:35.505.000.000 đồng/427 lượt hộ vay, tăng  26.431.400.000 đồng so với năm 2015.

1.6. Công tác quản lý nhà nước về đất đai, tài nguyên và môi trường

Công tác quản lý đất đai được thực hiện đúng quy định của pháp luật. Việc quản lý tài nguyên khoáng sản được tăng cường, ngăn chặn kịp thời tình trạng khai thác khoáng sản trái phép. Thường xuyên quan tâm chỉ đạo về quản lý môi trường gắn với chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới , các hoạt động gây ô nhiễm môi trường được ngăn chặn kịp thời, các thôn duy trì dọn vệ sinh trong thôn 2 lần/tháng; cơ quan công sở xã, các nhà trường, trạm y tế thường xuyên tổ chức dọn vệ sinh 1 lần/ tuần. Tỷ lệ dân số dùng nước hợp vệ sinh là: 98,4%.

Trong giai đoạn 2015-2019 xã Lộc Thịnh đã tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất, tổng diện tích đất được đấu giá là: 20,229,74 m2, tổng số tiền thu ngân sách đạt trên 3,5 tỷ đồng.

Tăng cường chỉ đạo việc rà soát lập hồ sơ, xét đề nghị cấp giấy chứng nhận QSD đất ở lần đầu và đất nông nghiệp sau đổi điền dồn thửa, được thực hiện kịp thời, đến nay đã cấp 218 giấy CNQSDĐ các loại cho nhân dân.  

2. Về chương trình xây dựng nông thôn mới và các phong trào phát triển kinh tế  - xã hội của xã.

Với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự đồng thuận, hưởng ứng của toàn dân.Trong 5 năm qua trên địa bàn xã với sự hỗ trợ từ nguồn lực của Ngân sách cấp trên, vốn lồng ghép các chương trình dự án và sự đóng góp của nhân dân đã đầu tư xây dựng được 13,49 km đường bê tông xi măng; 9,44km đường cấp phối; xây mới 05 Nhà văn hóa thôn,01 trạm y tế; Nhà hiệu bộ trường Tiểu Học, 02 trạm biến áp, 01 nhà trường mầm non với 4 phòng học, hoàn thiện các công trình, hạng mục Công sở xã, Trung tâm VHTT xã, xây mới chợ, Nhà bia tưởng niệm các Anh hùng liệt sỹ của ; tiến hành khoan thăm dò để xây mới Nhà hiệu bộ trường Mầm Non trong năm 2020; xây mới và tu sửa hệ thống kênh mương, hồ đập trên địa bàn xã đảm bảo nhu cầu tưới tiêu phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Đến nay xã đã đạt 14/19 tiêu chí; 2/6 thôn, làng đạt chuẩn nông thôn mới.

Các phong trào về phát triển kinh tế - xã hội của Huyện được triển khai thực hiện có hiệu quả, trong nhiệm kỳ các thôn, làng đã chỉnh trang khuôn viên được 10/6 thôn, Làng, 01 khuôn viên cơ quan xã, 01 khuôn viên nhà trường; xây dựng được 10 cổng chào;  trên 9 km đường điện chiếu sáng; xây dựng được 10 gia trại.

  Tổng số vốn huy động trong giai đoạn 2015 - 2020 trên 45 tỷ đồng. Trong đó: Vốn nhân dân đóng góp: 27 tỷ, còn lại là vốn lồng ghép các chương trình dự án.

3. Về lĩnh vực văn hóa - xã hội có nhiều chuyển biến tiến bộ; công tác an sinh xã hội được chăm lo; đời sống vật chất tinh thần của nhân dân tiếp tục được nâng lên.

3.1. Hoạt động văn hoá, thông tin, thể dục thể thao.

 Thường xuyên thực hiện tốt công tác thông tin tuyên truyền các chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước, nhiệm vụ chính trị của địa phương. Chất lượng hoạt động của thôn, nếp sống văn minh trong các khu dân cư được nâng lên, phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa tiếp tục được đẩy mạnh.

Chỉ đạo triển khai và thực hiện việc khai trương xây dựng thôn, cơ quan văn hóa; đến nay5/6 thôn, làng; 3/4 cơ quan văn hóa được công nhận; có 593 hộ đạt gia đình văn hóa = 59,6%. Có 6 đội văn nghệ và 12 đội bóng chuyền nam nữ. Duy trì tổ chức tốt ngày hội văn hóa,thể thao truyền thống của xã vào ngày 15 tháng giêng hàng năm.

3.2. Giáo dục - đào tạo:

- Tập trung chú trọng đổi mới công tác quản lý và nâng cao chất lượng dạy và học, xây dựng trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia, các nhà trường hàng năm hoàn thành tốt nhiệm vụ năm học; Tỷ lệ học sinh khá, giỏi hàng năm được tăng lên, chất lượng mũi nhọn được quan tâm, trong nhiệm kỳ qua đã có học sinh đạt giải học sinh giỏi cấp tỉnh.

Hoạt động của Hội khuyến học, trung tâm học tập cộng đồng đã phát huy hiệu quả: Hàng năm hội khuyến học đã phát động quyên góp, ủng hộ xây dựng quỹ khuyến học và trao thưởng cho giáo viên, học sinh đạt thành tích xuất sắc, gia đình dòng họ hiếu học, học sinh nghèo vượt khó vào dịp tổng kết công tác giáo dục hằng năm; phối hợp với các tổ chức nhân đạo, các công ty tổ chức trao học bổng cho học sinh nghèo vượt khó như học bổng của nhà máy đường Lam Sơn, học bổng “Doãn Tới”....Trong nhiệm kỳ qua trung tâm học tập cộng đồng đã mở được 110 lớp với 6.580 lượt học viên tham gia.

3.3. Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân và vệ sinh an toàn thực phẩm:

 Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho việc chăm sóc sức khỏe ban đầu tại Trạm y tế luôn đảm bảo, đội ngũ cán bộ y tế đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ. Giữ vững xã đạt chuẩn Quốc gia về y tế giai đoạn 2015-2020. Tỷ lệ người dân tham gia BHYT đến nay đạt 97,28%. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng đầu nhiệm kỳ 19,6%, đến nay giảm xuống còn dưới 18%. Tỷ lệ tăng dân số bình quân hàng năm dưới 1%, đạt mục tiêu nghị quyết đại hội.

Thường xuyên quan tâm tuyên truyền nâng cao nhận thức cho người dân về vệ sinh an toàn thực phẩm,khuyến khích nhân dân sản xuất tự cung tự cấp một số thực phẩm phục vụ nhu cầu hàng ngày để đảm bảo sức khỏe và dinh dưỡng,triển khai ký cam kết về sản xuất và cung cấp thực phẩm đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.

3.4.Chính sách xã hội:

 Giải quyết việc làm, xuất khẩu lao động hàng năm luôn được quan tâm tổ chức thực hiện, trong nhiệm kỳ đã giới thiệu giải quyết việc làm cho 425 lao động và ước thực hiện 2020 đạt 42 lao động. Công tác xuất khẩu lao động được quan tâm, đã xuất cảnh  67 lao động đi làm việc tại thị trường Ả rập, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc và một số quốc gia trong khu vực Đông Nam Á; dự kiến 2020 xuất cảnh 10 lao động.

Các ngành, đoàn thể đã phối hợp thực hiện tốt công tác giảm nghèo, phong trào giúp nhau phát triển kinh tế luôn thực hiện rộng rãi, thiết thực như hỗ trợ vốn tín dụng,   kiến thức khoa học kỷ thuất, lao động, giống cây con; nhiều hộ đã vươn lên thoát nghèo, một số hộ đã trở nên khá giàu. Trong nhiệm kỳ đã giảm được 168 hộ nghèo, đến nay tỷ lệ hộ nghèo còn 5,07%, vượt chỉ tiêu Nghị quyết đại hội (dưới 7%); giảm 145 hộ cn nghèo đến nay tỷ lệ hộ cận nghèo còn 6,31%.

Công tác đào tạo nghề; chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn luôn được quan tâm, giảm lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, tăng lao động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ và các ngành nghề khác.

Công tác Chính sách - xã hội được đảm bảo, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện; tập trung chỉ đạo giải quyết chế độ, chính sách an sinh xã hội, chính sách người có công được thực hiện đầy đủ, kịp thời. Thực hiện tốt các chính sách về Dân tộc, kịp thời thăm hỏi,động viên, tặng quà cho các hộ gia đình thuộc đối tượng chính sách trong dịp lễ tết và khi gặp khó khăn hoạn nạn.

4. Về Quốc phòng - An ninh

            4.1. Quốc phòngQuan tâm, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân. Thường xuyên giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và nhân dân về nhiệm vụ quốc phòng - an ninh. Chú trọng công tác xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện, an toàn làm chủ, sẵn sàng chiến đấu và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; trong năm 5 qua đã tổ chức huấn luyện cho 266 đồng chí dân quân kết quả 100% đạt yêu cầu, trong đó có 75% đạt khá và giỏi, tổ chức lớp bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho đối tượng 4 do xã quản lý là: 35 đồng chí. đối tượng 4 do huyện quản lý là 12 đ/c; đối tượng 3 là 6 đ/c. Duy trì và thực hiện nghiêm túc chế độ trực sẵn sàng chiến đấu từ xã đến các thôn trong các ngày lễ, tết, các ngày lễ lớn của quê hương đất nước. Năm 2019 hoàn thành tốt nhiệm vụ diễn tập chiến đấu phòng thủ. Trong nhiệm kỳ đã tiễn 22 thanh niên lên đường làm nghĩa vụ quân sự đạt chỉ tiêu trên giao.

      Thực hiện tốt công tác chính sách hậu phương quân đội, đến nay đã xét đề nghị chi trả 28/46 đối tượng theo quyết định 62, 100/155 đối tượng quyết định 49 của thủ tướng chính phủ.

            4.2. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội:

            Đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc, xây dựng thôn, làng không có tội phạm và tệ nạn xã hội. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tiếp tục được giữ vững. Phạm pháp hình sự giảm về số vụ, không có điểm nóng xảy ra; ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân được nâng lên rõ rệt.

Việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần xây dựng ý thức sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật trong tầng lớp nhân dân. Công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật, công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư tố cáo, khiếu nại của công dân luôn được quan tâm thực hiện. Trong nhiệm kỳ đã tiếp 21 lượt công dân với 21 đơn kiến nghị đã giải quyết đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật, không có tình trạng khiếu kiện đông người xảy ra. Trên  80% các khu dân cư đạt chuẩn về an ninh trật tự .

  

công khai TTHC